Đắp đê - công cuộc khó nhọc của người dân xứ Bắc
Để bảo vệ kinh thành, bảo vệ cuộc sống của người dân, mùa màng, nông nghiệp, các triều đại đã rất coi trọng việc phòng, chống bão lũ, nhất là việc đê điều. Đây là việc sống còn của một nhà nước phụ thuộc vào kinh tế nông nghiệp. Nhưng những con đê mong manh từ xưa vẫn chưa đủ sức phòng, chống lũ lụt hung dữ.
Việc xây dựng đê điều ngày xưa do nhà vua điều hành. Việc này diễn ra hằng năm như trong Lễ tịch điền (hay hạ điền) mở đầu mỗi mùa canh tác. “Việc bảo vệ dân chúng và mùa màng cũng đòi hỏi vương triều phải can thiệp trực tiếp vào những công trình thủy lợi để cố gắng bảo vệ các cánh đồng khỏi bị lũ lụt” (Theo “Tính năng động của công trình thủy lợi châu thổ sông Hồng dưới triều Nguyễn” của TS. Olivier Tessier, Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội).
Theo sách “Việt sử thông giám cương mục tiết yếu” cho biết: “Tháng Hai năm Mậu Tý, năm thứ 8 (1108) đời Vua Lý Nhân Tông, “Mùa hạ đắp đê ở phường Cơ Xá”.
Sau trận lụt lớn vỡ đê Long Đàm (Hà Nội ngày nay), tháng 10 năm 1245, sách “Đại Việt Sử ký” viết: “Đời Thái Tôn hoàng đế (1225 - 1258) Triều Thiên ứng chính bình… Mậu Thân năm thứ 17 (1248). Tháng 3, sai các lô đắp đê giữ nước sông, gọi là đê Đỉnh nhỉ (quai vạc), đắp suốt từ đầu nguồn cho đến bờ biển để giữ nước lụt tràn ngập. Đặc chức Hà Đê chánh phó sứ để trông coi. Chỗ đắp thì xem đắp mất bao nhiêu ruộng đất của dân, phải giá trả lại tiền. Đắp đê Đỉnh nhĩ bắt đầu từ đấy… Mùa Hạ tháng 4 (1255) chọn các tản quan làm Hà đê Chánh phó sự các lộ, khi nào rỗi việc làm ruộng thì đốc thúc quân lính đắp bờ đê đào mương lạch để phòng lụt hạn”.
Cũng có sách sử ghi lại rằng việc đắp đê đã có từ thời nhà Trần. “Vua Trần Thái Tông cử một chánh sứ và một phó sứ trông coi các công trình đắp đê. Tháng 5/1255, vua cử xuống mỗi tỉnh một viên võ quan để giữ chức vụ Hà đê chánh sứ của tỉnh. Hằng năm, vào cuối kỳ công việc đồng áng, quân đội được sử dụng vào việc đắp đê, đào mương để không còn phải lo lụt lội, hạn hán nữa. Tóm lại, các tài liệu chúng tôi có trong tay hình như cho thấy rõ ràng rằng chỉ đến giữa thế kỷ XIII châu thổ Bắc Kỳ mới có công việc đắp đê hợp lý và phổ biến” (Theo sách “Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ - Nghiên cứu địa lý nhân văn”).
![]() |
Nhận định về việc đắp đê giai đoạn này, TS. Olivier Tessier đưa ra quan điểm: “Nỗ lực đắp đê thực hiện trong thế kỷ XIII và XIV không được tiến hành theo một quy hoạch tổng thể trên châu thổ và phải dựa vào các kỹ thuật xây dựng theo kinh nghiệm và có chất lượng không đều từ tỉnh này qua tỉnh khác. Hậu quả là sự mong manh của đê điều đắp nên và chỗ tiếp nối thành hệ thống đôi khi không vững chắc, không đủ để chống lại những trận lũ trung bình của sông Hồng và các chi lưu, chứng cớ là có nhiều ghi chép về vỡ đê, lụt lội, về gia cố đê điều và công trình mới”.
Dưới triều Vua Lê Thánh Tông, do việc vỡ đê sông Tô Lịch, hoàng đế chỉ dụ sửa sang đê điều và đường sá khắp cả nước và đặt các quan chức mới về khuyến nông và hà đê. Năm 1503, dưới triều Vua Lê Hiển Tông, Dương Trực Nguyên - Tả thị lang Bộ Lễ tâu xin: “Đắp đê sông Tô Lịch trên từ cầu Trát xuống đến sông Cống để phòng bị thủy hoạn, lại xin khai cừ Yên Phúc xuống đền cừ Thương Phúc để lấy nước tưới ruộng. Nhà vua chuẩn y” (theo sách “Việt sử thông giám cương mục”).
Bộ luật của nhà Lê đã có quy định rất chặt chẽ về việc đắp đê, tu bổ đê điều, giám sát, trông coi… Việc đắp đê, tu bổ theo quy định sẽ được tiến hành vào 10 tháng Giêng và trong 2 tháng phải hoàn thành vào ngày 10 tháng 3. Các quan lộ phải thường xuyên theo dõi công trình và các quan hà đê thường xuyên có mặt để đốc thúc, đẩy nhanh tiến độ. Khi công trình không đúng tiến độ, các quan lộ bị phạt tiền, quan hà đê bị giáng cấp. Binh lính, dân chúng và thuộc lại không đến lao động khi được gọi, làm việc không khẩn trương, khiến công trình vượt qua thời gian cho phép sẽ bị phạt giáng cấp và lưu đày.
“Điều 181: Các công trình tu sửa đê điều phải bắt đầu từ mùng 10 tháng Giêng, tất cả dân làng trong vụng hộ đê phải đến đoạn đê được giao tu bổ. Công trình đó phải làm trong thời hạn hai tháng: mùng 10 tháng ba phải hoàn thành. Khi đắp đê mới thời hạn 3 tháng định ra phải hoàn thành. Các quan lộ phải thường xuyên giám sát công trình, các giám hộ và đốc phu phải liên tục đôn đốc thực hiện”.
Nhà Nguyễn đắp đê sông Hồng
Năm 1809, Vua Gia Long cải cách việc quản lý đê điều là lập một ty trung ương chuyên trách đặt dưới quyền một vị quan triều đình là “quan Đê chính Bắc thành”. Đồng thời ban bố một điều lệ gồm 8 điều nói về việc thực hiện các công trình liên quan cùng đánh giá chi phí.
Điều lệ đó định các loại đê theo 3 mức quan trọng (đê đại gian, đê trung giang và đê tiểu giang) và đưa ra đối với mỗi loại một kích thước chung cho công trình: chiều rộng, chân đê và mặt đê, chiều cao và độ nén. Giống như nhà Lê, Luật Gia Long đã định ra hình phạt có thể đi đến xử trảm những ai bị truy tố “Lén lút đào thân đê - Điều 395” và “vi phạm thời gian cần thiết và không tu sửa đê điều - Điều 936”.
Dù nhiều cải cách mạnh mẽ về quản trị đê điều, cũng như cách phòng, chống lũ lụt bảo vệ dân chúng và mùa màng, nhưng vỡ đê và lũ lụt vẫn xảy ra thường xuyên dưới triều Vua Gia Long và Minh Mệnh. Sách “Đại Nam thực lục” đều ghi từ tháng 6 hằng năm, thiên tai gây lũ lớn hay hạn hán, nhà vua phải khẩn cấp cứu tế gạo tiền cho lưu dân hay miễn thuế khóa “Bắc Thành nước lớn, ba trấn Sơn Tây, Sơn Nam, Nam Định đều vỡ đê, nhà cửa ruộng nương chìm ngập nhiều, cũng có người chết đuối, Thành thần trước phái người đi khắp các nơi mà lượng phát chẩn, rồi đem việc tâu lên… Xem tờ tấu trình của dân bị lụt, rất là thương xót, mà phát chẩn không được nhiều, Nhân dân chưa khỏi túng thiếu. Vậy dụ cho trấn thần cấp thêm, không cứ đàn ông, đàn bà, già trẻ, người chết đuối thì được cấp 3 quan tiền, người nghèo của cấp 1 quan tiền, 1 phương gạo”, Đại Nam thực lục nói về trận lũ năm 1827.
Người Pháp phòng, chống lũ lụt ở Hà Nội
Khi chiếm được Hà Nội, nhận thấy thành phố này thường xuyên ngập lụt, người Pháp đã có nhiều phương án nhanh chóng, khả thi phòng, chống ngập lụt. Đây là việc làm cấp thiết của chính quyền thực dân, để bảo vệ cơ quan công quyền của họ tại Hà Nội
Ngay từ năm 1886, Khu Công chính Bắc Kỳ là cơ quan chuyên môn phụ trách công tác đắp đê sông Hồng và sông Đuống đã có những dự án xây kè bờ sông Hồng ở Hà Nội. Tiếp đó, một Hội đồng kỹ thuật giám sát các biện pháp bảo vệ và khôi phục kè tại Hà Nội được thành lập trong năm 1887.
Trong 3 năm liền (1888 - 1891), phương án xây kè Cự Phú đã được Tổng Trú xứ Trung - Bắc Kỳ, Hội đồng thuộc địa, Trưởng Khu Công chính Bắc Kỳ bàn bạc và thông qua. Trong quá trình thực hiện, thành phố đã ra quyết định cấp tiền bồi thường cho những người có đất bị thu hồi để xây kè Cự Phú. Đây là kè đầu tiên được xây tại Hà Nội. Một số kè khác cũng được xây dựng trong thời gian sau. Vào năm 1899 bồi đắp thêm cho các đoạn thấp của đê Đại La rồi sau đó mới là xây dựng các con đê. Xây dựng các con đê mới mà bây giờ gọi là đường Cầu Đất, đường Trần Quang Khải…
![]() |
Ngay từ năm 1892, Toàn quyền Đông Dương đã ủy quyền cho Thống sứ Bắc Kỳ Chavassieux ký một nghị định cho phép mở một khoản tín dụng 10.000 đồng Đông Dương để thi công các công trình bảo vệ đê sông Hồng phía thượng lưu Hà Nội. Nhờ vậy, đoạn đê sông Hồng phía Nhật Tân bị vỡ năm 1892 đã được gia cố kịp thời.
Từ 1893 đến 1897, nhiều lần tu sửa đê đã được thực hiện tại huyện Thọ Xương và huyện Thanh Trì; gia cố các vết nứt trên đê Nhật Tân năm 1895; đắp cao thêm 30 trượng cho đoạn đê sông Hồng qua địa bàn Yên Phụ năm 1899 vì đoạn đê này rất thấp, thường xuyên bị nước tràn bờ mỗi năm; sửa chữa và gia cố đê bờ phải sông Hồng đoạn từ làng Phúc Xá; làng Lương Yên; bồi đắp và gia cố đê bờ phải sông Hồng đoạn từ Phú Xá đến Thanh Trì tại các làng Nhật Tân, Quảng Bá, Nội Châu, Nghi Tàm, Yên Phụ, Lãng Yên, Lạc Trung, Lương Yên... và các đoạn đê từ Nhật Tân đến Vĩnh Tuy tại các tổng Thượng, Phúc Lâm, Thanh Nhàn và Hoàng Mai…
Từ năm 1924 - 1929, có hẳn một chương trình gia cố đê do Tổng Thanh tra Công chính Đông Dương soạn thảo được bắt đầu bằng việc bồi đắp và gia cố các đoạn đê từ Yên Phụ đến Nghi Tàm, từ Nghi Tàm đến Quảng Bá và từ Yên Lãng đến Vĩnh Tuy vào tháng 5/1924.
Năm 1925 việc gia cố được thực hiện đối với đê của huyện Thanh Trì tại các tổng Vĩnh Ninh, Nam Phù, Thịnh Liệt, Cổ Diễn và Ninh Xá và đoạn từ Đông Tác đến bờ đê sông Hồng (Lãng Yên). Riêng đê bờ phải sông Hồng được gia cố nhiều lần, từ năm 1921 đến 1931.
Chính quyền bảo hộ thực hiện bảo vệ đê khu vực từ sông Hồng đến đê bao Thành phố Hà Nội là ra quyết định cấm xây lò gạch hoặc các công trình tương tự trong khu vực này vì việc lấy đất làm gạch có thể gây vỡ đê trong mùa mưa lũ.
Công việc bảo vệ đê điều trong mùa lụt từ 1917 - 1945 cũng được thực hiện theo Nghị định ngày 01/7/1917 của quyền Thống sứ Bắc Kỳ, quy định việc canh gác, bảo vệ, gia cố và sửa chữa đê trong cả mùa khô và mùa mưa lũ, cùng các biện pháp an ninh đối với người và tài sản khi lũ lụt xảy ra; huy động sự trợ giúp của quân đội vào việc bảo vệ chống lụt ở Bắc Kỳ và ở Hà Nội trong các năm từ 1907 - 1913 và 1930.
(PLM) - Sau những ngày mưa lớn do ảnh hưởng của hoàn lưu bão, nhiều xã ngoại thành Hà Nội như Thư Lâm, Đa Phúc, Trung Giã bị ngập sâu, giao thông chia cắt, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, các lực lượng gồm cán bộ, chiến sĩ Công an TP Hà Nội, học viên Trường Cao đẳng An ninh nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 141 (Sư đoàn 312), cùng đoàn viên thanh niên, hội viên phụ nữ, cựu chiến binh, giáo viên và người dân địa phương đã phối hợp triển khai cứu trợ, hỗ trợ người dân di dời tài sản và khắc phục hậu quả sau mưa lũ.
(PLM) - Ngày 30.9.2025, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã có quyết định số 28.2025/QĐST-DS về việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thụ lý số 96/2024/TLST-DS ngày 18.11.2024 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Hùng, sinh năm 1959; bà Phạm Thị Xuyên sinh năm 1954, cùng trú tại thôn Tân Thành, xã Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh. Bị đơn là bà Nguyễn Thị Thuật, sinh năm 1947, có địa chỉ tại thôn Tân Thành, xã Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh.
(PLM) - Sáng ngày 09/10 đoàn thiện nguyện xuất phát từ Hà Nội mang theo gần 3 tấn hàng cứu trợ đã khẩn trương lên đường đến với bà con tỉnh Thái Nguyên, một trong những nơi đang bị ngập lụt nặng nề nhất trong đợt mưa lũ này.
(PLM) - Rạng sáng 11/10, ngôi nhà bốn tầng một tum nằm sâu trong ngõ 180 phố Kim Hoa, phường Văn Miếu - Quốc Tử Giám bốc cháy làm cả gia đình 5 người tử vong.
(PLM) - Ngày 10/10/2025, nhân dịp kỷ niệm 73 năm Ngày truyền thống Ngành Xuất bản, In và Phát hành sách Việt Nam (10/10/1952 – 10/10/2025), Đoàn công tác Bộ Tư pháp do đồng chí Nguyễn Quang Thái, Phó Bí thư chuyên trách Đảng ủy Bộ làm Trưởng đoàn đã đến thăm và chúc mừng Nhà Xuất bản Tư pháp. Cùng tham gia đoàn có đại diện các đơn vị thuộc Đảng ủy và Văn phòng Bộ.
(PLM) - Sáng 10/10, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Tịnh đã có mặt tại trụ sở Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam để trao số tiền 740 triệu đồng ủng hộ đồng bào các tỉnh bị thiệt hại do bão lũ.
(PLM) Từ ngày 9 đến 11/10/2025, Hội nghị Ung thư Phổi Châu Á 2025 lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam, đánh dấu bước tiến quan trọng trong hợp tác quốc tế về nghiên cứu và điều trị ung thư. Sự kiện do Tổng Hội Y học Việt Nam và Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam phối hợp cùng Hội Nghiên cứu Ung thư Phổi Thế giới tổ chức.
(PLM) - Từ tối ngày 8/10, mực nước sông Cầu và sông Cà Lồ dâng nhanh, lên vượt mức báo động 3, nước tràn qua đê vào khu vực dân cư gây ngập sâu tại nhiều xã như Sóc Sơn, Trung Giã, Đa Phúc, Thư Lâm, Nội Bài. Công an thành phố Hà Nội đã nhanh chóng huy động các lực lượng chạy đua với lũ dữ, triển khai đồng thời nhiều mũi công tác, sử dụng xuồng máy, ca nô, phao cứu sinh và thiết bị chuyên dụng, đi sâu vào từng ngõ nhỏ, từng nhà, dùng loa và đèn pin ra tín hiệu kêu gọi di tản.
(PLM) - Sáng 10/10, Trường Tiểu học Ngô Thì Nhậm (phường Hai Bà Trưng, TP Hà Nội) tổ chức chương trình “Hành trình yêu thương – Thắp sáng ước mơ”, phát động quyên góp ủng hộ đồng bào các tỉnh bị ảnh hưởng bởi mưa lũ.
(PLM) - “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ” — những câu ca dao, tục ngữ giản dị ấy lại vang lên tha thiết trong những ngày bão lũ vừa qua. Giữa cảnh nước dâng, nhà trôi, ruộng vườn tan hoang, người Việt lại thấy ấm lòng bởi tinh thần tương thân tương ái, bởi nghĩa đồng bào sâu nặng vốn đã ăn sâu trong máu thịt dân tộc. Trong cơn lũ dữ, có những giọt nước mắt rơi vì đau thương, nhưng cũng có những giọt nước mắt rơi vì xúc động – xúc động bởi tình người, tình đồng bào, bởi truyền thống tốt đẹp “lá lành đùm lá rách” vẫn vẹn nguyên qua bao thế hệ người Việt.