CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982: Thiết lập và củng cố trật tự pháp lý trên biển, hợp tác biển vì hòa bình và phát triển bền vững
Cùng thúc đẩy duy trì và củng cố hòa bình, đồng thời bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và các nguồn tài nguyên biển, trong đó có hợp tác quốc tế bảo tồn đa dạng sinh học biển, chống ô nhiễm nhựa đại dương, nhằm thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững nêu tại Chương trình nghị sự 2030 của Liên Hợp quốc cũng như thực hiện Chương trình hành động quốc gia của Việt Nam về phát triển bền vững.
UNCLOS là khuôn khổ pháp lý toàn diện về biển và đại dương
Năm 2022 đánh dấu 40 năm Công ước của Liên Hợp quốc (LQH) về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) được Hội nghị LHQ lần thứ 3 về Luật Biển thông qua và được Việt Nam ký cùng với nhiều quốc gia khác tại Montego Bay, Jamaica (10/12/1982 - 10/12/2022); đồng thời đánh dấu 28 năm kể từ ngày UNCLOS được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn (23/6/1994) và bắt đầu có hiệu lực đối với Việt Nam và các nước khác đã phê chuẩn Công ước (16/11/1994). Năm 2022 cũng đánh dấu 20 năm Việt Nam cùng các nước ASEAN và Trung Quốc thông qua Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) (4/11/2002) và 10 năm Luật Biển Việt Nam được Quốc hội thông qua (21/6/2012).
Những năm qua, Việt Nam không ngừng nỗ lực cùng các nước tích cực thúc đẩy thực thi UNCLOS, là một trong 12 nước sáng lập thành lập Nhóm bạn bè UNCLOS (30/6/2021), nhằm tạo lập và duy trì diễn đàn cởi mở, thân thiện để các nước cùng trao đổi các vấn đề về biển và đại dương, qua đó đóng góp chung vào việc thực hiện đầy đủ UNCLOS, trong đó có công việc của các Hội nghị quốc gia thành viên UNCLOS. Việt Nam đã tham gia quá trình đàm phán UNCLOS và các văn kiện pháp lý quốc tế trong khuôn khổ UNCLOS, là một trong 107 quốc gia ký UNCLOS ngay sau khi Công ước được thông qua và bắt đầu được mở ký.
Việc Việt Nam tích cực tham gia và thực hiện UNCLOS thể hiện thiện chí, quan điểm và chính sách nhất quán, sự coi trọng và kỳ vọng của Việt Nam vào một trật tự pháp lý công bằng về biển, nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế trên biển, vì hòa bình và phát triển bền vững. Điểm 2 Nghị quyết của Quốc hội về việc phê chuẩn UNCLOS nêu rõ: “Bằng việc phê chuẩn Công ước của LHQ về Luật Biển 1982, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”.
UNCLOS được các quốc gia và cộng đồng quốc tế coi trọng, công nhận là văn kiện pháp lý quốc tế toàn cầu quan trọng thứ hai sau Hiến chương LHQ, do các quốc gia xây dựng và hoàn thiện sau Chiến tranh thế giới thứ II và được đông đảo các quốc gia tham gia. Nghị quyết tổng hợp thường niên của Đại hội đồng LHQ về Đại dương và Luật Biển tái khẳng định “Công ước này là khuôn khổ pháp lý điều chỉnh mọi hoạt động trên biển và đại dương và có tầm quan trọng chiến lược, là cơ sở cho mọi hành động và hợp tác về biển ở cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu; tính toàn vẹn của Công ước cần được duy trì như LHQ đã công nhận tại Hội nghị về Môi trường và Phát triển nêu tại Chương 17 của Chương trình nghị sự 21… cũng như cam kết bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn tài nguyên biển vì phát triển bền vững nêu tại Mục tiêu 14 của Chương trình nghị sự 2030”.
Ngay tại Lời nói đầu của UNCLOS, các quốc gia đã khẳng định mong muốn “giải quyết mọi vấn đề liên quan đến luật biển” và “thiết lập một trật tự pháp lý trên biển”. Xuất phát từ mong muốn chung đó, UNCLOS với 320 Điều và 9 Phụ lục, quy định một cách rõ ràng và toàn diện về quy chế pháp lý của các vùng biển thuộc phạm vi tài phán quốc gia và ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia, cũng như các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia dù có biển, quốc gia không có biển hoặc bất lợi về mặt địa lý trong việc sử dụng, khai thác và quản lý biển và đại dương, các quy định về hàng hải và hàng không; việc sử dụng và quản lý tài nguyên biển bao gồm tài nguyên sinh vật và phi sinh vật; vấn đề bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an ninh trật tự trên biển; việc giải quyết tranh chấp và hợp tác quốc tế về biển.
Vai trò của UNCLOS là khuôn khổ pháp lý toàn cầu cao nhất cũng được khẳng định tại Điều 311 về quan hệ giữa UNCLOS và các Công ước và hiệp định quốc tế khác, cũng như tại Điều 293.1 liên quan đến quan hệ với các nguồn khác của luật quốc tế, trong đó có luật tập quán quốc tế. Các quốc gia đã khẳng định tại UNCLOS rằng, các điều ước quốc tế giữa hai hay nhiều quốc gia thành viên UNCLOS về bất kỳ vấn đề nào đã được quy định trong Công ước thì phải bảo đảm phù hợp với Công ước; “chỉ các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các hiệp định/thoả thuận phù hợp với Công ước mới tiếp tục có giá trị” (Điều 311.2); hiệp định/thỏa thuận (agreement) nhằm thay đổi hoặc dừng áp dụng một số quy định của Công ước giữa hai hoặc nhiều quốc gia thành viên chỉ có thể được ký kết với điều kiện thỏa thuận đó không ảnh hưởng đến “việc thực hiện hiệu quả mục tiêu và mục đích của Công ước này”, “việc áp dụng các nguyên tắc của Công ước”, và “việc thụ hưởng các quyền và thực thi nghĩa vụ theo Công ước” (Điều 311.3); hiệp định/thỏa thuận được UNCLOS cho phép ký hoặc được duy trì một cách rõ ràng theo các điều khoản của Công ước thì không bị ảnh hưởng (Điều 311.5).
Về quan hệ giữa UNCLOS với các nguồn khác của luật quốc tế, trong đó có luật tập quán quốc tế, chỉ có các quyền và nghĩa vụ hình thành từ các quy tắc của pháp luật quốc tế không trái với UNCLOS là được công nhận và áp dụng bởi toà án hay toà trọng tài có thẩm quyền theo Phần XV của Công ước (Điều 293.1).
Công ước “giải quyết mọi vấn đề liên quan đến biển”
UNCLOS tại Đoạn 8 Lời nói đầu cũng nêu rõ “các vấn đề không được điều chỉnh bởi Công ước sẽ tiếp tục được điều chỉnh bởi luật quốc tế chung” cần phải được hiểu, giải thích phù hợp với mục tiêu và quy định nêu trên của UNCLOS. Theo đó, đoạn này là để giải quyết quan hệ giữa UNCLOS với tư cách là luật chuyên ngành (lex specialis) chứa đựng các quy phạm cụ thể về biển với luật quốc tế chung (general international law hay còn gọi là lex generalis) bao gồm các nguyên tắc và quy phạm chung áp dụng cho tất cả các ngành của luật pháp quốc tế như nguyên tắc thiện chí thực thi các điều ước quốc tế đã ký kết (pacta sunt servanda) hay giải quyết một cách hòa bình các tranh chấp quốc tế, các quy định về giải thích điều ước quốc tế được pháp điển hoá trong Công ước Vienna năm 1969 về luật điều ước. Hơn nữa, bản thân Lời nói đầu UNCLOS đã khẳng định Công ước “giải quyết mọi vấn đề liên quan đến biển”. Do đó, việc giải thích Đoạn 8 này theo hướng UNCLOS không phải là khuôn khổ pháp lý duy nhất và tồn tại các khuôn khổ khác như luật tập quán quốc tế hình thành trước Công ước điều chỉnh các vấn đề về biển là đi ngược lại với mục tiêu của UNCLOS, nhằm hạ thấp giá trị của Công ước.
Thực tiễn án lệ gần đây, Tòa trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS đã xem xét mối quan hệ giữa UNCLOS và các nguồn khác của luật quốc tế, đặc biệt là giá trị của các quyền hình thành trước khi Công ước ra đời và kết luận: (i) Đối với các quyền và nghĩa vụ được hình thành độc lập với UNCLOS và không trái với UNCLOS, việc áp dụng các quyền này không bị Công ước làm thay đổi; (ii) Đối với các quyền và nghĩa vụ hình thành một cách độc lập trước khi UNCLOS có hiệu lực và không phù hợp với UNCLOS thì các quyền và nghĩa vụ này sẽ bị loại bỏ. Tòa trọng tài này cũng khẳng định, không có quy định nào của UNCLOS cho phép các quyền lịch sử đối với tài nguyên được tiếp tục tồn tại tại các vùng đặc quyền kinh tế và Công ước cũng không cho phép các quyền này được được tồn tại tại thềm lục địa, biển cả và Vùng đáy biển quốc tế. UNCLOS không có quy định nào về việc duy trì và bảo vệ cho các quyền lịch sử không phù hợp với UNCLOS. (còn nữa)
(Nguồn: Báo in Pháp luật Việt Nam số 270 ra ngày 27/9/2022)