K-Pop: Ngành công nghiệp "hái ra tiền" của Hàn Quốc
Ngành công nghiệp tỉ USD
Trong thời đại của Youtube và các ứng dụng nghe nhạc trực tuyến, K-Pop hiện là một ngành công nghiệp trị giá hàng tỉ USD. Billboard gần đây công bố BTS là một trong 5 ngôi sao âm nhạc kiếm nhiều tiền nhất thế giới năm 2020, với doanh thu khoảng 31,5 triệu USD. Theo thống kê về thị trường âm nhạc Mỹ nửa đầu năm 2021, BTS đã bán được 573.000 đĩa CD và trở thành nghệ sĩ bán được nhiều album CD nhất tại M trong nửa đầu năm.
Còn tại Hàn Quốc, nhóm nhạc nam này cũng đang sở hữu album bán chạy nhất tính từ đầu năm là “Map of the Soul: 7” với 4,1 triệu bản được bán ra trong vòng chưa đầy 1 tháng. BTS cũng là nghệ sĩ sở hữu nhiều album bán được hơn 1 triệu bản nhất, với 9 album.
Với sự thành công của “gà cưng”, Công ty HYPE quản lý của BTS đã trở thành công ty có lợi nhuận ròng cao nhất trong quý II/2021, lên tới 20,2 tỷ won (khoảng 17 triệu USD). Lợi nhuận được BTS mang về cho công ty chủ yếu từ việc bán album, biểu diễn, các chương trình trực tuyến được phát trên khắp thế giới và các hợp đồng quảng cáo trị giá hàng triệu USD. Những người hâm mộ BTS cho biết họ dành cảm tình cho ban nhạc này không chỉ vì họ có tới 7 nam ca sĩ trẻ đẹp, sở hữu những màn trình diễn sôi động mà còn ở chỗ các bài hát của họ thường mang ý nghĩa tích cực và truyền cảm hứng.
Sự thành công của những ban nhạc K-Pop như BTS đang mở ra triển vọng thành công khắp thế giới của các ban nhạc khác. “Nền công nghiệp K-Pop đang được đào tạo bài bản và thành công đáng kể. Trong tương lai, K-Pop sẽ không chỉ gói gọn ở khu vực châu Á mà còn lan ra các khu vực khác trên toàn thế giới, giống như sự phát triển của nền âm nhạc Mỹ và Anh”, một người hâm mộ K-Pop cho biết.
K-Pop không chỉ là âm nhạc mà còn là khởi nguồn của những xu hướng thời trang mới cho giới trẻ, bao gồm từ quần áo, phụ kiện cho tới cách trang điểm. Các thần tượng hay còn gọi là “Idol” và nghệ sĩ K-Pop là nguồn khai thác cho các hãng thời trang để quảng cáo cho thương hiệu của họ tới nhóm khách hàng tiềm năng là những người hâm mộ K-Pop. Hiện tượng các món đồ mà thần tượng sử dụng, dù là trên sân khấu hay ở sân bay, trong đời thường ngay sau khi được báo chí hoặc truyền thông xã hội đăng tải đều được người hâm mộ lùng mua.
Ví dụ như Rosé - thành viên của BlackPink và là gương mặt đại diện cho các chiến dịch quảng bá toàn cầu của hãng thời trang và mỹ phẩm Yves Saint-Laurent, hay thương hiệu trang sức Tiffany&Co. Nhờ Rosé mà Yves Saint-Laurent trở nên phổ biến hơn rất nhiều tại thị trường châu Á. Theo tạp chí The Glossary, chiến dịch quảng bá toàn cầu của Rosé là một trong những chiến dịch ấn tượng nhất trong mùa thu 2020.
Hay như Jungkook (thành viên nhỏ tuổi nhất của BTS) được fan đặt cho biệt danh “Vua bán chạy” nhờ vào khả năng làm cho tất cả các sản phẩm mà anh dùng đều được bán hết veo. Ví dụ, khi tương tác trong buổi phát sóng trực tiếp trên VLive với người hâm mộ ngày 27/2/2021, Jungkook uống trà Kombucha của thương hiệu Teazen. Ngay sau đó, doanh số bán trà của Teazen tăng 500% nhờ lượng hàng bán cho người hâm mộ của Jungkook. Kho nước uống Kombucha cũng được bán hết sạch chỉ trong 3 tháng. Và Teazen đã giành giải Thương hiệu của năm 2021.
Niềm tự hào của dân Hàn Quốc
Nhờ sức ảnh hưởng của K-Pop mà nền kinh tế Hàn Quốc thời gian qua đã tăng trưởng một cách đáng kể. K-Pop đã trở thành một hiện tượng mới ở các nước phương Tây nhờ ca sĩ PSY và bài hát nổi tiếng “Gangnam Style” được ra mắt vào năm 2012. Điệu nhảy “cưỡi ngựa” chỉ sau một thời gian ngắn đã trở nên phổ biến khắp thế giới và giúp PSY thu về 8 triệu USD từ Youtube. Hiện nay, nhiều ông lớn trong ngành giải trí Hàn Quốc cũng đã góp mặt trong danh sách tỷ phú USD của tạp chí Forbes. Năm 2019, làn sóng văn hóa Hàn Quốc như K-Pop, phim truyền hình đã đóng góp khoảng 12,3 tỷ USD cho nền kinh tế nước này.
Không phải ngẫu nhiên mà K-Pop nổi tiếng toàn cầu như hiện nay. Vào cuối những năm 1990, khi châu Á đang trải qua một cuộc khủng hoảng tài chính lớn, các nhà lãnh đạo Hàn Quốc quyết định sử dụng âm nhạc và điện ảnh để xây dựng hình ảnh văn hóa riêng. Chính phủ Hàn Quốc khi đó đã lập một ban chuyên về K-Pop và thực hiện nhiều chính sách phổ biến và cổ vũ yêu thích K-Pop như đổi mới công nghệ hình ảnh, xây dựng phòng nhạc lớn... để K-Pop trở nên phổ biến hơn nữa trên toàn cầu, tương tự như văn hóa Mỹ.
Kết quả là, nhờ K-Pop, hình ảnh thương hiệu quốc gia của Hàn Quốc đã được phổ biến hơn nhiều. Càng ngày càng có nhiều người nước ngoài quan tâm hơn đến việc học ngôn ngữ Hàn Quốc và K-Pop cũng đã được quảng bá khắp thế giới. K-Pop còn khai thác rất nhiều hướng đi mới để đóng góp phát triển cho nền công nghiệp nước này.
Để có được thành công như vậy, bên cạnh sự hỗ trợ từ chính phủ, việc đào tạo các ngôi sao K-Pop vô cùng khắc nghiệt. Quá trình đào tạo thậm chí đã được ban thành luật và điều hành hết sức nghiêm túc. Ở Hàn Quốc, có hàng triệu người khao khát được trở thành “idol” hoạt động trong ngành công nghiệp K-Pop, nhưng để làm được lại là việc không hề dễ dàng. Nếu được nhận vào một công ty giải trí có tiếng, các thực tập sinh sẽ được đào tạo miễn phí thanh nhạc, vũ đạo và diễn xuất. Công ty sẽ có những bài kiểm tra hàng tháng để đánh giá năng lực của học viên và sẽ quyết định, lựa chọn những thực tập sinh sáng giá để cho ra mắt.
Tuy nhiên, độ tuổi của các “idol” khi được ra mắt công chúng thường là vào khoảng cuối độ tuổi 10 và đầu độ tuổi 20. Vì vậy, các thực tập sinh thường rất trẻ. Khi đã trở thành thực tập sinh của một công ty giải trí, họ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn như tập luyện vất vả, trợ cấp ít ỏi và phải sống xa gia đình. Họ có thể phải tập luyện từ vài tháng cho tới vài năm nhưng không chắc chắn có thể được ra mắt với tư cách là một “idol”. Một số người đã phải từ bỏ ước mơ trở thành “idol” khi bước sang tuổi 20 vì quá tuổi dù họ đã dành hết thanh xuân cho việc tập luyện.
Trong trường hợp may mắn được cho ra mắt, thời gian đầu, khó khăn mà họ phải trải qua cũng không ít. Bởi, mọi thu nhập đến từ hoạt động của các nghệ sĩ khi đó sẽ được công ty giữ lại để chi trả cho việc đào tạo khi còn là thực tập sinh. Có rất nhiều công ty không đủ điều kiện về tài chính đã bỏ ra một số tiền lớn để đào tạo “idol” nhưng rồi vẫn phải để nhóm nhạc tan rã vì thu nhập của nhóm không đủ để bù lại vào đầu tư ban đầu.
Chưa hết, đằng sau ánh hào quang, nhiều “idol” phải đối mặt với nhiều khó khăn, như phải làm việc cật lực, bị quấy rối tình dục, đời tư bị kiểm soát và hầu như mất tự do trong cuộc sống. Đó là mặt tối khác của ngành công nghiệp giải trí Hàn Quốc. Do vậy, những năm gần đây, tỉ lệ tự tử hoặc mắc các bệnh về tâm lý của idol K-Pop ngày càng tăng.