GDP quý I/2023 tăng 3,32%, thách thức mục tiêu 6,5% năm 2023
Dịch vụ phục hồi
Thông tin tại cuộc Họp báo về tình hình kinh tế - xã hội quý I/2023 ngày hôm qua - 29/3, bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng, Tổng cục Thống kê (TCTK) cho biết, trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn, kinh tế - xã hội quý I /2023 của nước ta đạt được kết quả tích cực.
Theo đó GDP quý 1/2023 chỉ tăng 3,32% so với cùng kỳ năm trước và là mức thấp thứ 2 trong giai đoạn 2011-2023 (GDP quý I/2022 tăng 5,03% - PV). Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,52%, đóng góp 8,85% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 0,4%, làm giảm 4,76%; khu vực dịch vụ tăng 6,79%, đóng góp 95,91%.
Đáng chú ý, tại khu vực công nghiệp và xây dựng, sản xuất một số ngành công nghiệp chủ lực suy giảm do chi phí sản xuất đầu vào tăng cao, số lượng đơn đặt hàng giảm mạnh. Giá trị tăng thêm các ngành công nghiệp quý I/2023 giảm 0,82% so với cùng kỳ năm trước, là mức giảm sâu nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2023, làm giảm 0,28 điểm phần trăm trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Ở chiều ngược lại, khu vực dịch vụ trong quý 1/2023 thể hiện rõ sự phục hồi nhờ hiệu quả của các chính sách kích cầu tiêu dùng nội địa, chính sách mở cửa nền kinh tế trở lại từ ngày 15/3/2022 khi dịch COVID-19 được kiểm soát, các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam tới các nước trên thế giới được đẩy mạnh.
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh, thành phố trực Trung ương (GRDP) quý 1/2023 so với cùng kỳ năm trước tăng ở 58 địa phương và giảm ở 5 địa phương trên cả nước. Đặc biệt, ở một số địa phương có mức giảm khá mạnh như Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 4,75%; Quảng Nam giảm 10,88%; Bắc Ninh giảm 11,85%…
Đóng góp của một số ngành dịch vụ vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của quý 1/2023 là khá đáng kể: Dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 25,98% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,64 điểm phần trăm; ngành bán buôn và bán lẻ tăng 8,09%, đóng góp 0,85 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,65%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 6,85%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 1,5%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Còn nhiều khó khăn
Với những kết quả đã đạt được, theo nhận định của TCTK, điều này khẳng định chính sách quản lý và điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương đã từng bước phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, tình hình kinh tế xã hội quý I/2023 cũng đã dự báo nhiều khó khăn của năm 2023.
Báo cáo của TCTK cho thấy, tính chung quý I/2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 154,27 tỷ USD, giảm 13,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu giảm 11,9%; nhập khẩu giảm 14,7%.
Đáng chú ý, tính đến thời điểm 20/3/2023, tổng phương tiện thanh toán chỉ tăng 0,57% so với cuối năm 2022 (cùng thời điểm năm 2022 tăng 2,49%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 0,77% (cùng thời điểm năm 2022 tăng 2,15%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt chỉ 1,61% (cùng thời điểm năm 2022 tăng 4,03%).
Trên thị trường cổ phiếu, tính chung quý I/2023, giá trị giao dịch bình quân đạt 11.437 tỷ đồng/phiên, giảm 43,3% so với bình quân năm 2022. Trên thị trường trái phiếu, giá trị giao dịch bình quân quý I năm 2023 đạt 4.740 tỷ đồng/phiên, giảm 38,3% so với bình quân năm 2022.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/3/2023 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 5,45 tỷ USD, giảm 38,8% so với cùng kỳ năm trước.
Báo cáo của TCTK cũng cho thấy, trong quý I/2023, cả nước có 57 nghìn doanh nghiệp (DN) đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, giảm 5,4% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có gần 19 nghìn DN thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số DN rút lui khỏi thị trường là 60,2 nghìn DN, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có gần 20,1 nghìn DN rút lui khỏi thị trường.
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các DN ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I/2023 cho thấy số DN đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn thấp hơn nhiều so với các quý năm 2022 (chỉ có 24,3%) nhưng dự kiến quý II/2023, có 44,1% số DN đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý I/2023.
Mục tiêu tăng trưởng 6,5% là thách thức lớn
Tại cuộc họp báo, Tổng cục trưởng TCTK Nguyễn Thị Hương nhận định, bước sang quý II/2023, kinh tế - xã hội dự báo tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn. "Để đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5% của năm 2023 là thách thức lớn"- bà Hương nhận định.
Theo Tổng cục trưởng TCTK Nguyễn Thị Hương, để đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,5%, cần thường xuyên rà soát để kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Đặc biệt, cần có giải pháp hỗ trợ hiệu quả các DN thiếu vốn, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm và một số ngành, lĩnh vực bị tác động bất lợi do nhu cầu của thị trường thế giới suy giảm như: da giày, dệt may, sản xuất và chế biến gỗ...
Triển khai hiệu quả các giải pháp phù hợp kích cầu thương mại và dịch vụ, các chương trình xúc tiến, đẩy mạnh quảng bá thúc đẩy phát triển du lịch; các giải pháp để mở rộng, đa dạng hóa thị trường và sản phẩm xuất khẩu...
Tổng cục trưởng TCTK cũng đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quyết liệt triển khai nhanh, hiệu quả các nhiệm vụ, dự án đầu tư thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội năm 2023; đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao...
CPI quý I /2023 tăng 4,18% so với cùng kỳ năm trước.
TCTK cho biết, giá thực phẩm giảm do nguồn cung dồi dào; giá xăng dầu, giá gas giảm theo giá nhiên liệu thế giới là nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2023 giảm 0,23% so với tháng trước. So với tháng 12/2022, CPI tháng Ba tăng 0,74% và so với cùng kỳ năm trước tăng 3,35%. Tính chung quý I /2023 GDP tăng 4,18% so với cùng kỳ năm trước.
Trong mức giảm 0,23% của CPI tháng 3/2023 so với tháng trước có 6 nhóm hàng giảm giá so với tháng trước, 5 nhóm hàng tăng giá.
Trong quý I/2023, lạm phát cơ bản bình quân tăng 5,01% so với bình quân cùng kỳ năm 2022, cao hơn mức CPI bình quân chung (tăng 4,18%). Nguyên nhân chủ yếu do: Bình quân giá xăng dầu trong nước quý I/2023 giảm 11,09% so với cùng kỳ năm trước là yếu tố kiềm chế tốc độ tăng của CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.