Điều đáng tiếc trong đại án TCty 3/2: 12 năm sau khi phát hiện sai sót mới khởi tố
Thế nhưng sai sót nhiều lần bị chỉ ra đó đã không được cơ quan chức năng Bình Dương khắc phục xử lý. Để rồi cuối năm 2019, chính cơ quan chức năng Bình Dương lại khởi tố vụ án (sau này năm 2020 Bộ Công an rút vụ án về điều tra).
Sai sót, nhưng vẫn chuyển giao
Theo KLĐT 39/KLĐT-CSKT(P10) và KLĐT bổ sung 54/KLĐT-CSKT(P10) của Cơ quan CSĐT Bộ Công an (CA), với dự án 145 ha (có nhiều tên gọi như “dự án 145”, “dự án Tân Thành”, “dự án sân golf Tân Thành và khu nghỉ dưỡng đảo Hồ Điệp”…), ông Nguyễn Văn Minh (nguyên Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ TCty 3/2) đã chỉ đạo đưa vào góp vốn tại Cty Tân Thành mà không định giá, không đưa vào xác định giá trị DN khi CPH, gây thất thoát tài sản Nhà nước.
Nguồn gốc để TCty 3/2 có khu đất trên, phải kể từ ngày 8/6/2004, khi UBND tỉnh có văn bản chấp thuận chủ trương cho TCty 3/2 nhận đất. Ngày 24/11/2004, TCty 3/2 ký hợp đồng “đền bù đất đai” với BQL Khu liên hiệp Công nghệ - Dịch vụ - Đô thị Bình Dương. TCty 3/2 phải tự bỏ kinh phí hoàn trả tiền đền bù cho BQL để được nhận đất. Ngày 7/4/2005, UBND tỉnh có văn bản chấp thuận chủ trương giao đất cho TCty 3/2. Ngày 1/6/2006, BQL và TCty 3/2 bàn giao mốc ranh. Trước tiên phải khẳng định, trên đây là cơ chế giao nhận đất “không giống ai”, “chỉ có ở Bình Dương”.
Theo KLTT số 2623/KL-TTCP ngày 26/11/2008 của Thanh tra Chính phủ (TTCP), việc TCty 3/2 dùng 145 ha đất trên để góp vốn cùng 2 đối tác nước ngoài thành lập Cty CP Phát triển & Đầu tư Tân Thành (xây dự án trên đất đó) khi chưa có “sổ đỏ” là trái với điểm d, khoản 2, Điều 110 Luật Đất đai 2003 và Thông tư 23/2006/TT-BTC.
Hai năm sau đó, tại KLTT 1040/KL-TTCP-V.I ngày 29/4/2010 về việc chấp hành pháp luật tại TCty 3/2, một lần nữa TTCP nhắc đến khu đất 145 này. Theo đó, “việc chấp thuận cho phép TCty 3/2 góp vốn bằng quyền sử dụng đất (QSDĐ) liên doanh với nước ngoài, triển khai đầu tư dự án khi chưa thực hiện đầy đủ thủ tục giao đất, phê duyệt dự án là chưa đúng điểm đ, khoản 2, Điều 110, Điều 106, khoản 2 Điều 31 Luật Đất đai 2003; Điều 30 và khoản 4 Điều 98 Nghị định 181/2004/NĐ-CP”.
TTCP cho biết, “nội dung này cũng đã được Ủy ban Kiểm tra Trung ương kiểm tra, kết luận tại văn bản 492/TB/UBKTTW ngày 4/9/2009”.
Theo TTCP, nguyên nhân dẫn đến các khuyết điểm tồn tại trên trước hết liên quan trách nhiệm các cơ quan chức năng Bình Dương trong quản lý, chỉ đạo, điều hành các hoạt động của DN. Tuy nhiên, nguyên nhân khách quan có tác động đáng kể là do cơ chế chính sách và các quy định Nhà nước về quy hoạch, quản lý sử dụng đất còn nhiều bất cập, chưa cụ thể (…) dẫn đến gây khó khăn không nhỏ cho DN trong triển khai thực hiện đầu tư dự án trong điều kiện môi trường nền kinh tế có nhiều biến động.
Trong KLTT này, TTCP cũng kiến nghị Bộ Tài chính và Văn phòng TW Đảng nghiên cứu, hướng dẫn, ban hành các quy định cụ thể về quy trình sắp xếp, đổi mới các DN thuộc sở hữu của Đảng; cơ chế quản lý vốn, tài sản, lợi nhuận do liên doanh liên kết tại các DN của các cơ quan Đảng; và trình tự, thủ tục điều chuyển vốn, tài sản từ sở hữu của Nhà nước cho các DN thuộc sở hữu của Đảng.
Trong cả KLTT 2623/KL-TTCP và 1040/KL-TTCP-V.I, không có hướng dẫn cụ thể những sai sót tại dự án 145 phải khắc phục xử lý ra sao. Thực tế sau này cho thấy, dự án 145 sau đó vẫn được thực hiện.
Ngày 14/7/2016, TCty 3/2 có văn bản 117/CV/TCTY, đề nghị với khu đất 145 “có nguồn gốc Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, đã được TCty cam kết dùng góp vốn thành lập Cty Tân Thành theo hợp đồng liên doanh. Theo đề án tái cơ cấu, cổ phần hóa TCty thì phần vốn góp của TCty tại Cty Tân Thành sẽ thuộc Cty cổ phần sau cổ phần hóa (CPH), do đó TCty sẽ thực hiện thủ tục góp vốn bằng QSD khu đất này và giao quyền quản lý sử dụng cho Cty Tân Thành kinh doanh và phát triển dự án”.
Ngày 29/7/2016, trả lời đề xuất trên, Tỉnh ủy Bình Dương có văn bản 407-CV/TU đồng ý chuyển giao khu đất trên cho TCty 3/2.
Nếu sai sót được xử lý sớm, có thể đã không có sai phạm xảy ra
Sau chỉ đạo trên, “ngày 9/6/2017, TCty 3/2 và Cty Tân Thành ký hợp đồng góp vốn bằng giá trị QSDĐ khu đất 145 ha, giá trị QSDĐ được các bên kế thừa hợp đồng liên doanh ký ngày 12/10/2007” (theo thông báo kết quả kiểm toán số 122/TB-KTNN ngày 25/4/2019 của KTNN).
Hơn bốn tháng sau đó, Sở TN&MT có tờ trình 788/TTr-STNMT do Giám đốc Sở, ông Phạm Danh ký trình UBND tỉnh, đề xuất khu đất 145 ha là “phần diện tích DN tiếp tục kế thừa tính vào giá trị DN CPH”.
Cùng thời điểm này, sai sót liên quan khu đất 145 lại được Kiểm toán Nhà nước (KTNN) chỉ ra trong văn bản 346/KTNN-TH ngày 15/8/2017 (về kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất đô thị trên địa bàn Bình Dương giai đoạn 2013 – 2016). KTNN xác định với dự án khu dịch vụ của TCty 3/2 (trong đó có khu đất 145), thì tiền SDĐ phải nộp tăng thêm theo bảng giá đất tại thời điểm giải phóng mặt bằng là gần 201 tỷ đồng.
Gần hai năm sau, khu đất 145 một lần nữa lại được KTNN “điểm danh” trong thông báo kết quả kiểm toán số 122/TB-KTNN ngày 25/4/2019 (về quyết toán giá trị phần vốn Nhà nước tại thời điểm chính thức chuyển sang Cty CP của TCty 3/2).
Trong văn bản gửi lãnh đạo Tỉnh ủy Bình Dương, KTNN đề nghị Tỉnh ủy chỉ đạo UBND tỉnh, TCty 3/2 kiểm gia, giải quyết dứt điểm theo pháp luật với việc góp vốn liên doanh bằng QSDĐ 145 ha. “Sau khi thực hiện giải quyết dứt điểm theo quy định của Nhà nước với nội dung trên, chênh lệch về giá trị phần vốn Nhà nước so với số liệu đã được KTNN xác định tại thời điểm 31/10/2018; thì đề nghị Tỉnh ủy Bình Dương chỉ đạo cơ quan liên quan và TCty 3/2 thực hiện điều chỉnh giá trị phần vốn Nhà nước để quản lý, sử dụng theo đúng quy định pháp luật”, KTNN nêu rõ.
Thế nhưng thực tế, sau đó Công an Bình Dương đã khởi tố vụ án “vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí” xảy ra tại TCty 3/2. Rồi Bộ Công an rút vụ án về điều tra, và với khu đất 145 ha, kết luận ông Minh đã chỉ đạo đưa vào góp vốn tại Cty Tân Thành mà không định giá, không đưa vào xác định giá trị DN khi CPH, gây thất thoát tài sản Nhà nước.
Một LS thuộc Đoàn LS TP HCM nhận xét: “Móc xích những tình tiết nêu trên, có thể thấy sai phạm của TCty 3/2 và ông Minh có khởi nguồn từ việc được giao nhận đất với Bình Dương theo “cơ chế không giống ai”. Lại thêm yếu tố có thể vì tự tin vì tự bỏ kinh phí hoàn trả tiền đền bù cho Bình Dương để được nhận đất; lại là DN thuộc Văn phòng Tỉnh ủy Bình Dương; nên từ sai sót tồn tại rồi chuyển hóa thành sai phạm, vi phạm”.
"Còn một yếu tố đáng tiếc góp phần dẫn tới vụ án này, đó là những sai sót ban đầu, dù đã nhiều lần được Ủy ban Kiểm tra Trung ương, TTCP, KTNN chỉ ra; nhưng cơ quan chức năng Bình Dương đã không chỉ đạo TCty 3/2 sửa sai dứt điểm; để rốt cục thành một đại án”.
“Theo tôi, còn một yếu tố quan trọng khác không kém. Đó là sai sót của TCty 3/2 với khu đất 145 ha được mỗi cơ quan chức năng chỉ ra một điểm sai, thời gian cách nhau rời rạc. Lại thêm sự hiểu biết pháp luật có thể còn hạn chế của các đối tượng quản lý DN, ví dụ hiểu “phần diện tích DN tiếp tục kế thừa tính vào giá trị DN CPH” là như thế nào; nên các hành vi không đúng quy định pháp luật đã xảy ra”.