Đường lối đối ngoại của Việt Nam: Gắn kết lợi ích quốc gia - dân tộc với trách nhiệm quốc tế
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Phát huy những thành tựu đã đạt được, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra Chiến lược xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước trong thời kỳ mới, trong đó có Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với mục tiêu tổng quát: Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng XHCN. Các mục tiêu cụ thể như sau: Đến năm 2025 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Để đạt được mục tiêu trên, bên cạnh phát huy tối đa nội lực của đất nước, phát huy ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong toàn xã hội, hoạt động đối ngoại có vai trò rất quan trọng nhằm thực hiện có hiệu quả việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Trước những biến đổi của tình hình thế giới, khu vực và xuất phát từ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, phát triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới với nội dung: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
Như vậy, Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục khẳng định mục tiêu hàng đầu của hoạt động đối ngoại là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Lợi ích tối cao quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc xuyên suốt của đối ngoại.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc 2021.
Đối ngoại vì lợi ích quốc gia dân tộc thể hiện qua các nhiệm vụ như: Đoàn kết dân tộc, tập hợp lực lượng đông đảo người Việt Nam trong và ngoài nước, phát huy tối đa nguồn lực trong nước, đồng thời huy động có hiệu quả nguồn lực nước ngoài vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đồng thời bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; đoàn kết quốc tế, tác động tích cực tới nỗ lực tập hợp lực lượng quốc tế của Việt Nam vì mục tiêu hòa bình, hợp tác và phát triển; nâng cao uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta là vì lợi ích quốc gia dân tộc. Về nguyên tắc đối ngoại: Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Nâng tầm, phát huy vai trò tiên phong của ngoại giao kinh tế
Với vai trò không chỉ là sự nối tiếp của chính sách đối nội, mà còn là một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của đất nước, đối ngoại Việt Nam trong những năm tới cần triển khai thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là: Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Do đó, đối ngoại Đảng có điều kiện để phát huy vai trò mạnh mẽ, đóng Một là,góp cho công tác đối ngoại chung của đất nước.
Ngoại giao Nhà nước gắn với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, gắn với quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc cũng như quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng của thời kỳ đổi mới. Ngoại giao Nhà nước với nội hàm cơ bản là “khả năng tham gia vào quan hệ với các quốc gia khác” cũng như quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện của Việt Nam hiện nay.
Còn đối ngoại nhân dân là sự kế thừa tư tưởng “lấy dân làm gốc”, đoàn kết dựa vào sức mạnh nhân dân và truyền thống ngoại giao “tâm công”, chính nghĩa, hòa bình, hòa hiếu và nhân đạo của dân tộc ta. Quan hệ nhân dân với nhân dân luôn giữa các nước là cơ sở cho mối quan hệ giữa các nước, là mối quan hệ bền vững và lâu dài, dù thái độ của Chính phủ có thay đổi thế nào thì quan hệ nhân dân giữa các nước vẫn không phai mờ hoặc mất đi.
Hai là: Xây dựng nền ngoại giao hiện đại phục vụ hiệu quả sự phát triển kinh tế của đất nước, lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Môi trường quốc tế, thế và lực của quốc gia, nền tảng đối ngoại, hội nhập cũng như mục tiêu, khát vọng phát triển của đất nước có cả những động lực và thuận lợi lớn, nhưng thách thức cũng rất lớn, đặt ra yêu cầu chúng ta phải có tư duy mới, tầm nhìn và quyết tâm cải cách mạnh mẽ, tìm kiếm những động lực phát triển mới, cũng như phải biết tận dụng, tranh thủ, khai thác hiệu quả những tiền đề và môi trường đối ngoại và hội nhập đã mở ra để thúc đẩy đất nước tiếp tục phát triển bứt phá, bền vững.
Trong đó, ngoại giao kinh tế cần phải nâng tầm, đi tiên phong, đổi mới không ngừng và nâng cao hiệu quả hơn nữa để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Trong những năm tới, ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế cần tập trung giải quyết các vấn đề như: Làm tốt nhiệm vụ giữ môi trường hòa bình, củng cố môi trường bên ngoài thuận lợi nhất cho hợp tác phát triển. Ngoại giao cần gắn kết chặt chẽ ba trụ cột là chính trị, kinh tế và văn hóa trong một chiến lược ngoại giao tổng thể để tối đa hóa lợi ích của đất nước. Ngoại giao phải gắn kết đất nước trong dòng chảy thời đại, trong xu thế vận động của thế giới, hòa vào dòng chảy của ngoại giao quốc tế, định vị đất nước trong thế giới hiện đại trên cơ sở thế và lực đất nước cũng như vị thế của quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Ngành ngoại giao và cán bộ ngoại giao cần thống nhất tư tưởng và hành động xem ngoại giao kinh tế là nhiệm vụ trung tâm trong giai đoạn hiện nay, từ đó lấy hiệu quả ngoại giao kinh tế làm tiêu chuẩn để đánh giá các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài.
Ba là: Đẩy mạnh đối ngoại đa phương, gắn kết giữa lợi ích quốc gia – dân tộc với trách nhiệm quốc tế. Đối ngoại đa phương là một điểm sáng trong công tác đối ngoại của Việt Nam những năm qua, có đóng góp to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước, đồng thời có những đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế vì vận mệnh chung của nhân loại, vì hòa bình, hữu nghị, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác phát triển và tiến bộ xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, đòi hỏi các quốc gia gắn chặt với nhau trước những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống cùng với sự khó lường của chính trị quốc tế hiện nay, các thể chế đa phương càng trở nên có ý nghĩa quan trọng để Việt Nam theo đuổi các mục tiêu đối ngoại của mình.
Bốn là: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Để thực hiện thắng lợi chủ trương hội nhập quốc tế, đưa hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, trong những năm tới, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Thực hiện triệt để phương châm “triển khai đồng bộ” các định hướng đối ngoại của Đại hội XIII, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, giữa các cấp, các ngành, các địa phương.
Trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao quốc gia - dân tộc, Việt Nam cần đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác, nhất là các khuôn khổ với đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, thúc đẩy quan hệ trên tất cả các lĩnh vực. Việt Nam cần nâng cao hơn nữa hiệu quả hội nhập, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, theo đó, Việt Nam cần tăng cường công tác phổ biến các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, đã nội luật hóa và các quy định trong quá trình triển khai.
Trong quá trình triển khai các định hướng lớn về hội nhập quốc tế được xác định trong Văn kiện Đại hội XI, XII và XIII, Việt Nam cần tập trung thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế tầm nhìn năm 2030 và các Đề án, Kế hoạch triển khai Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị khóa XI về hội nhập quốc tế; khẩn trương hoàn thiện, nâng cao năng lực các thể chế hội nhập quốc tế.
Năm là: Chú trọng công tác xây dựng tổ chức, bộ máy và đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ. Trong những năm tới, bên cạnh đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Hội nghị TW 4 khóa XII và XIII, cần tiếp tục rà soát, đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, sắp xếp, kiện toàn, nâng cao trình độ, năng lực tổ chức bộ máy của Ban Đối ngoại Trung ương, Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương và các bộ, ngành, địa phương, nhất là các cơ quan, đơn vị có chức năng làm công tác đối ngoại, từ các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài đến các đơn vị trong nước, hướng tới tổ chức tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả công tác đối ngoại nói chung, hội nhập quốc tế của đất nước nói riêng.